3. Lợi ích của Bát quan trai giới. Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời BÁT QUAN TRAI-GIỚI. Thích Tuệ Sỹ (tiếp theo và hết) NỘI DUNG TÁM GIỚI Bát quan trai giới, là trai giới có 8 chi. Nội dung các chi, theo ý nghĩa, chia làm 4 phần. 1. Giới tự tánh, gồm có 4 chi: sát sinh, trộm cướp, tà dâm, vọng ngữ. Nói là tự tánh, vì đó là phẩm chất cơ bản Cơ quan chủ quản: TTXVN; Người chịu trách nhiệm chính: Tổng Biên tập Trần Tiến Duẩn. Giấy phép số: 1374/GP-BTTTT do Bộ Thông tin và Truyền thông cấp ngày 11/9/2008. Quảng cáo: Phó TBT Đoàn Ngọc Thu: 098.320.8989, Email: thudoanngoc@gmail.com Tatto artist Geum Hwa bởi vì công việc “cover-up” che dấu vết sẹo mà gặp con trai của gangster- Seung-Jae. Nhưng còn ẩn dấu một vết sẹo khác. Bạn đang xem: Thọ bát quan trai là gì. “Bát” là tám, "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. "Trai" nghĩa là khi đã qua giờ ngọ (12 giờ trưa) không được ăn. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ bằng cách ngăn chặn 8 điều Trong "giới, định,huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mớiđịnh, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minhphiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật.Nhưng giới cũng có nhiều thứ: có thứ cao, thứ thấp, có xPADZOz. Bát quan trai là thực hành hạnh xuất gia trong một ngày một đêm. Do vậy, thọ trì Bát quan trai giới là một bước tiến quan trọng trong sự nghiệp tu tập của người Phật tử hướng đến giải thoát, giác ngộ. Bát quan trai giới, tiếng Pàli là Uposatha Sila, Hán dịch là Cận trú giới, Cộng trú giới, Thiện túc giới, Bát giới và Trai giới… Nghi thức thọ Tam quy và Ngũ giới và Bát quan trai giới Ý nghĩa và lợi ích của khóa tu thọ Bát Quan Trai A. MỞ ĐỀ Đức Phật Thích Ca nói pháp gần 50 năm, có đến pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là "giới, định, huệ". Trong "giới, định, huệ", thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sanh, huệ có phát sanh mới dứt trừ được vô minh phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tâm kiến tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ Giới, Bát quan trai giới, Bồ Tát giới, Tam quy Ngũ Giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ Tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai giới. B. CHÁNH ĐỀ I. ĐỊNH NGHĨA Bát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm 24 giời. Chữ "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. Chữ "Trai", tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn nữa. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗisau đây 1. Không được sát sanh 2. Không được trộm cướp 3. Không được dâm dục 4. Không được nói dối 5. Không được uống rượu 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát. 7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ 8. Không được ăn quá giờ ngọ II. GIẢI RÕ TÁM ĐIỀU RĂN CẤM NÓI TRÊN 1. Không được sát sanh a Ý nghĩa vì sao không được sát sanh Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nối vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô cùng. Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất...và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng. Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừngsát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành ! Chúng ta cũng nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cảnđừng cho người ta thi hành ác ý ấy. Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta. 2. Không được trộm cướp Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa? Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với gía cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng...Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế. Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu. Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta. 3. Không được dâm dục Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng "Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được". Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục. Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng. Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục. Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt dục. 4. Không được nói dối Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ Giới. Đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn. Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy ! Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân thật. 5. Không được uống rượu Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu". Chúng ta là Phật tử , nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa. Đấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống nữa. 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem Năm giác quan tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng tađến cảnh giới Niết Bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết Bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng ta. Phật cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng..phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội lỗi. Trên đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất địnhkhông được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng ta. Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùngquý báu cho sự tu hành của chúng ta. 7. Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng lớn Điều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ. Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca , trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác... Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dịđạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này. 8. Không được ăn quá giờ ngọ Trong luật Phật dạy "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ". Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây Ít mống tâm sai quấy Ít buồn ngủ Dễ được nhất tâm Ít hạ phong Thân được yên ổn và ít sanh bệnh. Trừ một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sanh lòng hổ thẹn. Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. C. KẾT LUẬN 1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn lao Như chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích choPhật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toànthạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác. Chúng ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem. Nhờ giới thứ Nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sanh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. Đối với chung quanh, ta không làm cho người và súc vật đau khỏ, mất thân mạng. Nhờ giới thứ Hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. Đối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải mà họ đã nâng niu, quý trọng. Nhờ giới thứ Ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. Đối với người bạn trăm năm, cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lề, làm cho họ kính trọng. Nhờ giới thứ Tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. Đối với người chung quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta. Nhờ giới thứ Năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con ma men này hành hạ. Nhờ giới thứ Sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô...Đối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát. Nhờ giới thứ Bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. Đối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách. Nhờ giới thứ Tám, tâm ta được định tỉnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về đêm. Bao nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng24 giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa? 2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành Bát quan trai giới Phật tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng tốt. Nếu không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi íchkhông bằng đến chùa. Vậy xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnhgiải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải thoát, an vui. ________________________________________ NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất nhiều. Ngoài trường hợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tự mình đối trước tượng Phật , theo phép như sau đây mà tự thọ. Một điều cốt yếu, trước khi thọ giới, giới tủ phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế, không còn lo nghĩ việc gì ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế thì 24 giờ thọ giớimới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tủ nên vào chùa thọ Bát quan trai giớitốt hơn. Trước khi thọ giới, phải rửa tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước bàn thờ Phật , thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng hương BÀI CÚNG HƯƠNG Nguyện thử diệu hương vân Biến mãn thập phương giới Cúng dường nhứt thiết Phật Tôn Pháp chư Bồ Tát Vô biên Thinh Văn chúng Cập nhứt thiết Thánh Hiền Duyên khởi quang minh đài Xứng tánh tác Phật sự Phổ huân như chúng sanh Giai phát Bồ đề tâm Viễn ly chư vọng nghiệp Viên thành Vô thượng đạo Xá 3 xá, tiếp đọc bài khẩn nguyện BÀI NGUYỆN Tư thời Đệ tử tên họ gì pháp danh pháp danh gì kim nhựt qui đầu Tam Bảo, phát nguyệnthọ trì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật , chư Đại Bồ Tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ Đệ tử thân tâm thanh tịnh, Phật sự viên thành. Xá đứng dậy cắm hương xướng lễ Nhứt tâm đảnh lễ, tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trú Tam Bảo 1 lạy. Nhứt tâm đảnh lễ Ta Bà Giáo chủ, Điều ngự Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật , Đương Lai Hạ Sanh Di Lặc Tôn Phật , Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ Tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. 1 lạy. Nhứt tâm đảnh lễ Lạc bang Giáo chủ, Đại từ, Đại Bi tiếp dẫn Đạo sư A Di Đà Phật , Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bố Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. 1 lạy Đứng dậy chắp tay tụng bài Đại bi Nam mô Đại bi hội thượng Phật Bồ Tát. 3 lần. Thiên thủ thiên nhãn vô ngại Đại bi tâm đà la ni. Nam mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tát đóa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án tát bàn ra phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. di hê rị, ma ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ ta bà ha. Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ ta bà ha. Nam mô thập phương thường trụ Tam Bảo 3 lần. Quì xuống chắp tay đọc bài Sám hối BÀI SÁM HỐI Đệ tử đã làm các nghiệp ác, Đều do vô thỉ Tham, Sân, Si, Từ thân, miệng, ý mà sanh ra Tất cả Đệ tử xin sám hối. Đọc 3 lần rồi đứng dậy Nam mô Cầu sám hối Bồ Tát Ma ha tát 3 lần, lạy 3 lạy Lạy xong quì xuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giới BÀI PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI MỘT LÀ GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SANH Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sanh vật. Tự mình không sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá HAI LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚP Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình không trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá BA LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤC Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh không dâm dục. Tự mình không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác phá phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng.1 xá BỐN LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐI Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảo người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá NĂM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢU Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, không bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá SÁU LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG ĐIỂM VÀ CA HÁT Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự mình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấy người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá BẢY LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐT Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằm ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy người khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá TÁM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜI Đệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời, không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâmvui mừng. 1 xá Đứng dậy xướng ba lần Ma ha Bát nhã Ba la Mật đa Tâm kinh Quán Tự Tại Bồ Tát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách. Xá Lợi Tử, Sắc bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không , không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như thị. bát quan trai bát quan trái giớ nghi thức bát quan trai hạnh xuất gia thọ bát quan trai như thế nào 8 giới cho phật tử tại gia tu bát quan trai phật tử tại gia cư sĩ TIN LIÊN QUAN PHẬT HỌC PHỔ THÔNG tác giả Hòa Thượng Thích Thiện HoaQuyển 1 Khóa I,II,III, IV Khóa I NHÂN THỪA PHẬT GIÁO Mục lục Bài thứ 10 BÁT QUAN TRAI GIỚI A. MỞ Ề ức Phật Thích-Ca nói pháp gần 50 năm, có đến pháp môn, vô lượng diệu nghĩa. Mặc dù giáo pháp nhiều như thế, nhưng không ngoài ba môn chính là “giới, định, huệ”.Trong “giới, định, huệ”, thì giới là phần quan trọng, là phần căn bản. Nhờ giới, tâm mới định, tâm có định, huệ mới phát sinh, huệ có phát sinh mới dứt trừ được vô minh phiền não; vô minh phiền não có dứt trừ mới minh tam kiên tánh và thành Phật. Nhưng giới cũng có nhiều thứ có thứ cao, thứ thấp, có thứ áp dụng cho hàng xuất gia, có thứ cho hàng tại gia. Trong hàng xuất gia, thì Sa di chỉ giữ 10 giới, Tỳ kheo giữ 250 giới, Tỳ kheo ni đến 348 giới. Về phía tại gia thì có Tam quy, Ngũ giới, Bát quan trai giới, Bồ tát giới. Tam quy Ngũ giới, thì chúng ta đã học rồi; Bồ tát giới thì khó khăn hơn, chúng ta sẽ học sau. Bây giờ đây, chúng tôi chỉ nói đến Bát quan trai CHÁNH Ề I. ỊNH NGHĨABát quan trai giới là một phép tu hành của người tại gia áp dụng trong một ngày một đêm 24 giờ.Chữ “Quan” là cửa, cửa ngăn chặn tám điều tội lỗi. Chữ “Trai”, tiếng Phạn là Posadha, nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn nữa. Vậy “Bát quan trai giới” là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 tiếng đồng hồ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi sau đây1. Không được sát sinh 2. Không được trộm cướp 3. Không được dâm dục 4. Không được nói dối 5. Không được uống rượu 6. Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và xem múa hát. 7. Không được nằm ngồi giường cao rộng đẹp đẽ 8. Không được ăn quá giờ GIẢI RÕ TÁM IỀU NGĂN CẤM NÓI TRÊN1. Không được sát Ý nghĩa vì sao không được sát sinhChúng sinh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để cố trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nỗi vui mừng, đau xót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sinh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất…và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người đã đành! Chúng ta cũng không nên động đến sinh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lơn ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ý như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng Không được trộm chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa rộng lớn vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. ó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa?Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng… Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cuớp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng Không được dâm dục là cái nghiệp nhơn sinh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng “Người muốn đoạn trừ sinh tử, chứng quả Niết-bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được”.Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lang chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt Không được nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, mà chúng ta đã có học rồi trong bài Ngũ giới. ó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy!Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân Không được uống làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhièu tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si thế, trong Kinh, Phật dạy “Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu”.Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người đang trau dồi trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ “Bát quan trai giới”, chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đứng uống Không được trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát và đi xem múa giác quan tai, mắt, mũi, lưỡi, thân là năm cửa ngõ, có thể mở đường cho chúng ta đến cảnh giới Niết-bàn, hay vào địa ngục. Nếu chúng ta biết mở năm cánh cửa ấy về nẻo thanh tịnh, nghe những lời hay lẽ phải, thấy những điều thiện, điều lành, ngửi những mùi thơm tinh khiết, đạo vị, thì con đường đến Niết-bàn, giải thoát không xa. Trái lại, nếu chúng ta hướng những cánh cửa giác quan ấy vào cõi ô trọc, mở rộng chúng cho tội lỗi ùa vào, nào nghe tiếng du dương luyến ái của dục vọng, thấy cảnh trụy lạc, dâm ô, ngửi mùi vị say nồng, kích thích dục lạc, thì con đường địa ngục đã sẵn sàng mở rộng để đón chờ chúng cấm Phật tử trang điểm, tô sơn trét phấn, xức ướp dầu thơm, múa hát lả lơi, quyến rũ, hay cấm đi xem những cảnh múa hát ấy, là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát, miễn là những thứ âm nhạc, những điệu múa hát ấy có tánh cách trong sạch, xây dựng và hướng thiện. Nhưng trong hiện tại, các thứ nghệ thuật kịch nhạc, ca, vũ, cải lương, chiếu bóng… phần nhiều có tánh cách trụy lạc, thoái hóa, chúng ta nên đề phòng, đừng quá dễ dãi mà sa vào vòng tội đây là nói trong ngày thường, chứ ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta nhất định không được trang điểm, xức ướp dầu thơm, múa hát hay đi xem múa hát. Hơn nữa, chúng ta phải cố gắng diệt trừ những âm hưởng, bóng dáng của những thứ nghệ thuật không lành mạnh, trong đầu óc chúng như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng Không được nằm ngồi giường cao đẹp, rộng răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ-ạt quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý-Tôn và vua Hy-Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý-Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ-ạt quốc sư mống niệm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và khổ hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp-Tôn-Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao-Phong-Diệu thiền sư lập nguyện ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích-Ca, trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác…Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy Không được ăn quá giờ luật Phật dạy “Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sinh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ ngọ”.Ăn đúng giờ ngọ, được năm điều lợi sau đây– Ít mống tâm sai quấy – Ít buồn ngủ – Dễ được nhất tâm – Ít hạ phong – Thân được yên ổn và ít sanh một vài trường hợp như khi đau ốm, luật cũng châm chước cho được ăn cơm cháo sau giờ ngọ, nhưng khi ăn phải sinh lòng hổ những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn Phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới KẾT LUẬN 1. Lợi ích của Bát quan trai giới rất lớn chúng ta đã thấy ở các đoạn trên, Bát quan trai giới là một pháp tu vô cùng lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành ấy, thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều vô cùng. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma-ni, nên nó còn quý hơn trăm ngàn châu báu ta hãy phân tích một cách rõ ràng những lợi ích mà chúng ta đã thâu hoạch được trong 24 giờ ấy mà xem.– Nhờ giới thứ nhất, tâm ta không có ác ý giết hại sinh vật, miệng ta không nhai nuốt những máu huyết tanh hôi, thân ta không nặng nề vì thịt cá. ối với chung quanh, ta không làm cho người và súc vật đau khổ, mất thân mạng.– Nhờ giới thứ hai, tâm ta không động, ý ta không tham lam, thân ta không mang nặng những vật phi nghĩa. ối với người chung quanh, ta không làm họ đau khổ vì mất của cải mà họ đã nâng niu, quý trọng.– Nhờ giới thứ ba, tâm ta được thanh tịnh, thân ta khỏi ô uế. ối với người bạn trăm năm, cùng những người chung quanh, ta giữ đúng lễ, làm cho họ kính trọng.– Nhờ giới thứ tư, tâm ta không tà vạy, lưỡi ta không dối trá, điêu ngoa. ối với người chung quanh, ta giữ được chữ tín, làm mọi người khỏi lo sợ, nghi ngờ vì ta.– Nhờ giới thứ năm, tâm ta được minh mẫn, miệng ta không nồng nặc hơi men, thân ta không loạn động. ối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải lo sợ, khổ sở vì con ma men hành hạ.– Nhờ giới thứ sáu, tâm ta không buông lung theo dục lạc, giác quan ta không dung chứa những hình ảnh, mùi vị, âm thanh tà tạp, dâm ô…ối với người chung quanh, ta không làm cho họ phải tập nhiễm những cảm giác không trong sạch, không thanh thoát.– Nhờ giới thứ bảy, tâm ta không mống lên những niệm danh lợi, xa hoa; thân ta không bị dục lạc lôi cuốn. ối với người chung quanh, ta dễ gần gũi, thân cận, vì không bị cái cao sang, phù phiếm bên ngoài ngăn cách.– Nhờ giới thứ tám, tâm ta được định tĩnh, sáng suốt, thân ta nhẹ nhàng, ít bệnh tật; đối với các loài chung quanh, như người nghèo đói, ngạ quỷ, súc sinh, ta không gây ra sự thèm khát, vì sự lục lạo ăn uống về nhiêu sự lợi ích cho mình và cho người mà chúng ta đã thâu thập được trong khoảng 24 giờ đồng hồ, thử hỏi có một pháp tu hành của người tại gia nào quý báu hơn thế nữa?2. Bởi vậy Phật tử nên thực hành Bát quan trai tử tại gia mặc dù suốt ngày suốt tháng bận bịu về sinh kế làm ăn, mỗi tháng cũng nên sắp xếp việc nhà, vào chùa thọ Bát quan trai giới một vài lần. Nếu hoàn cảnh thuận lợi, có thể thọ được nhiều lần lại càng không đủ điều kiện đến chùa, thì phương tiện của nhà tu cũng được, nhưng lợi ích không bằng đến xin khuyên các Phật tử tại gia, nên cố gắng thực hành y như lời Phật dạy, tu theo hạnh giải thoát, rồi khuyên nhiều người thực hành theo, để cùng nhau tiến bước lên đường giải thoát, an vui. Mục lục Trang sau PHỤ BÀI SỐ 10 NGHI THỨC THỌ BÁT QUAN TRAI GIỚI Theo phép thọ Bát quan trai giới, người thọ giới phải đến chùa cầu một thầy Tỳ kheo trai giới thanh tịnh truyền cho. Về nghi thức có thầy truyền giới thì thứ lớp rất trường hợp trên, nếu không có thuận tiện để cầu thầy truyền cho, thì phương tiện tự mình đối trước tượng Phật, theo phép như sau đây mà tự điều cốt yếu, trước khi thọ giới, giới tử phải sắp đặt chuyện nhà có người thay thế, không còn lo nghĩ việc gì ở thế gian cả, để cho tâm trí yên tịnh, như thế thì 24 giờ thọ giới mới được nhiều lợi ích. Muốn được lợi ích nhiều, giới tử nên vào chùa thọ Bát quan trai giới tốt khi thọ giới, phải rửa tay,rửa mặt, súc miệng sạch sẽ, mặc áo tràng tề chỉnh, đến trước bàn thờ Phật, thắp ba cây hương rồi quì xuống, đọc bài cúng hươngBÀI CÚNG HƯƠNG Nguyện thử diệu hương vânBiến mãn thập phương giớiCúng dường nhứt thiết Phật,Tôn Pháp chư Bồ tátVô biên Thanh văn chúngCập nhứt thiết Thánh khởi quang minh đàiQuá ư vô biên giớiVô biên Phật độ trungXứng tánh tác Phật sựPhổ huân chư chúng sinhGiai phát bồ đề tâmViễn ly chư vọng nghiệpViên thành vô thượng đạo.Xá 3 xá, tiếp đọc bài khấn nguyệnBÀI NGUYỆN Tư thời đệ tử tên họ gì pháp danh pháp danh gì kim nhựt qui đầu Tam Bảo, phát nguyện thọ trì Bát quan trai giới, nhứt nhựt nhứt dạ. Duy nguyện thập phương chư Phật, chư ại Bồ tát, Hộ pháp thiện thần, từ bi gia hộ đệ tử thân tâm thanh tịnh, Phật sự viên thành.Xá đứng dậy cắm hương, xướng lễNhứt tâm đảnh lễ, tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai thập phương chư Phật , Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, Thường trụ Tam Bảo 1 lạy.Nhứt tâm đảnh lễ Ta-bà Giáo chủ, Điều Ngự Bổn sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, ương lai hạ sinh Di Lặc Tôn Phật, ại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, ại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát, Hộ Pháp Chư Tôn Bồ tát, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ tát. 1 lạy.Nhứt tâm đảnh lễ Lạc bang Giáo chủ, ại từ, ại Bi tiếp dẫn ạo sư A Di à Phật , ại bi Quán Thế Âm Bồ tát, ại Thế Chí Bồ tát, ại Nguyện ịa Tạng Vương Bồ tát, Thanh Tịnh ại Hải Chúng Bồ tát. 1 lạyứng dậy chắp tay tụng bài ại biNam mô ại bi hội thượng Phật Bồ tát. 3 lần.Thiên thủ thiên nhãn vô ngại ại bi tâm đà la mô hắc ra đác na đa ra dạ da. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thước bà ra da, bồ đề tát đóa bà da, Ma-ha tát đỏa bà da, Ma-ha ca lô ni ca tát bàn ra phạt duệ, số đát na đác tả. Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà mô na ra cẩn trì hê rị, Ma-ha bàn đa sa mế, tất bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế. di hê rị, Ma-ha bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, Ma-ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô ma ra, hô lô hô lô hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, bồ đề dạ bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì, địa rị sắc ni na, ba dạ ma na Ta-bà ha. Tất đà dạ Ta-bà ha. Ma-ha tất đà dạ Ta-bà ha. Tất đà dủ nghệ, thất bàn ra dạ, Ta-bà ha. Na ra cẩn trì, Ta-bà ha. Ma ra na ra Ta-bà ha. Tất ra tăng a mục khê gia Ta-bà ha. Ta-bà Ma-ha, a tất đà dạ, Ta-bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ Ta-bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ Ta-bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ Ta-bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ Ta-bà mô hắc ra đát na, đa ra dạ gia. Nam mô a rị gia bà lô kiết đế, thướt bàn ra dạ Ta-bà ha. Án tát diện đô mạn đa ra, bạt đà dạ Ta-bà mô thập phương thường trụ Tam Bảo 3 lần.Quì xuống chắp tay đọc bài Sám hối BÀI SÁM HỐI ệ tử đã làm các nghiệp ác, ều do vô thỉ Tham, Sân, Si, Từ thân, miệng, ý mà sinh ra Tất cả ệ tử xin sám hối.ọc 3 lần rồi đứng dậyNam mô Cầu sám hối Bồ tát Ma-ha tát3 lần, lạy 3 lạyLạy xong quì xuống chắp tay đọc bài phát nguyện thọ Bát quan trai giớiBÀI PHÁT NGUYỆN THỌ GIỚI MỘT LÀ GIỮ GIỚI KHÔNG SÁT SINHệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không sát hại các loài sinh vật. Tự mình không sát hại, không bảo người sát hại, hoặc thấy người khác sát hại cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáHAI LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRỘM CƯỚPệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không trộm cướp của cải mọi người. Tự mình không trộm cướp, không bảo người trộm cướp, hoặc thấy người khác trộm cướp, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáBA LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG DÂM DỤCệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không phá phạm hạnh không dâm dục. Tự mình không phá phạm hạnh, không bảo người phá phạm hạnh, hoặc thấy người khác phá phạm hạnh cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá BỐN LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NÓI DỐIệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nói dối. Tự mình không nói dối, không bảo người nói dối, hoặc thấy người khác nói dối, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xá NĂM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG UỐNG RƯỢUệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không uống rượu. Tự mình không uống rượu, không bảo người uống rượu, hoặc thấy người khác uống rượu, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáSÁU LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG TRANG IỂM VÀ CA HÁTệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không đeo bông, xoa hương, ca xướng, múa hát. Tự mình không trang điểm ca hát, không bảo người trang điểm ca hát, hoặc thấy người khác trang điểm ca hát, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáBẢY LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG NẰM NGỒI GIƯỜNG CAO TỐTệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không nằm ngồi giường cao tốt. Tự mình không nằm ngồi giường cao tốt, không bảo người nằm ngồi giường cao tốt, hoặc thấy người khác nằm ngồi giường cao tốt, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáTÁM LÀ NGUYỆN GIỮ GIỚI KHÔNG ĂN PHI THỜIệ tử thề trọn một ngày đêm nay, nguyện giữ giới không ăn phi thời. Tự mình không ăn phi thời, không bảo người ăn phi thời, hoặc thấy người khác ăn phi thời, cũng không sanh tâm vui mừng. 1 xáứng dậy xướng ba lầnNam mô Công Đức Lâm Bồ tát Ma ha tátMỗi lần 1 lạy, đứng dậy chắp tay tụng bài Bát nhã Tâm kinhMa-ha Bát nhã Ba la Mật đa Tâm kinh. Quán Tự Tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la Mật đa thời, chiếu khiến ngũ ẩn giai không, độ nhứt thiết khổ Lợi Tử, Sắc bất dị không , không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc; thọ, tưởng, hành, thức diệc phục như Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị xúc, pháp; vô nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô Vô minh, diệc vô Vô minh tận, nãi chí vô lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo, vô trí diệc vô đắc, dĩ vô sở đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật đa cố Tâm vô quái ngại. Vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư Phật, y Bát nhã Ba la mật đa cố đắc A Nậu a đa Tam miệu tam Bồ tri bát nhã Ba la mật đa, thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẳng đẳng chú, năng trừ nhứt thiết khổ, chơn thiệt bất hưCố thuyết Bát nhã Ba la mật đa chú, tức thuyết chú viết “Yết đế yết đế, Ba la yết đế, Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát bà ha”.VÃNG SINH THẦN CHÚ Nam mô A di đa bà dạ, đa tha dà đa dạ, đa điệc dạ tha, a di rị đô bà tỳ, a di rị đa tất đam bà tỳ, a di rị đa tỳ can lan đế, a di rị đa tỳ can lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ, Ta-bà ha. 3 lầnTIÊU TAI KIẾT TƯỜNG THẦN CHÚ Nẳng mồ tam mãn đa mẫu đà nẩm. A bát ra đề, hạ đa xá ta nản nẩm, đác điệc tha. Án khê khê, khê hế, hồng hồng, nhập phạ ra, nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, bát ra nhập phạ ra, để sắc sá, để sắc sá, sắc trí rị, sắc trí rị, ta phấn tra, ta phấn tra, phiến đề ca, thất rị duệ, Ta-bà ha. 3 lầnHỒI HƯỚNG Thọ giới công đức thù thắng hạnh, Vô biên thẳng phước giai hồi hướng, Phổ nguyện pháp giới chư chúng sinh, Tốc vãng Vô lượng quang Phật sát. Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não, Nguyện đắc trí huệ chơn minh liễu, Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ, Thế thế thường hành Bồ tát đạo. Nguyện sinh Tây phương Tịnh độ trung, Cửu phẩm liên hoa vi phụ mẫu, Hoa khai kiến Phật ngộ vô sinh, Bất thối Bồ tát vi bạn lữ. Nguyện dĩ thử công đức, Phổ cập ư nhứt thiết, Ngã đẳng giữ chúng sinh, Giai cộng thành Phật quy y Phật, đương nguyện chúng sinh, thể giải đại đạo, phát vô thượng tâm.1 lạyTự quy y Pháp, đương nguyện chúng sinh, thâm nhập kinh tạng, trí huệ như hải. 1 lạyTự quy y Tăng, đương nguyện chúng sinh, thống lý đại chúng, nhứt thiết vô ngại. 1 lạyXá 3 xá lui raNGHI THỨC THỌ TRAI Ngồi tề chỉnh, tay trái co ngón giữa, ngón áp, còn ba ngón dựng thẳng, để chén cơm lên; tay mặt kiết ấn cam lồ ngón cái bên tay phải đè lên ngón áp để dựa ngang phía trong miệng chén rồi xướngCúng dường Thanh tịnh pháp thân Tỳ Lô Giá Na mãn báo thân Lô Xá Na bá ức hóa thân Thích-Ca Mâu-Ni lai hạ sinh Di Lặc Tôn phương tam thế nhứt thiết chư Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Hạnh Phổ Hiền Bồ bi Quán Thế Âm Bồ Tôn Bồ tát Ma-ha Bát nhã ba la đức, lục vị, cúng Phật cập Tăng pháp giới hữu tình, phổ đồng cúng dường, nhược phạn thực thời, đương nguyện chúng sinh thiền duyệt vi thực, pháp hỷ sung mãn.Cúng dường rồi để bát xuống XUẤT SANH Lấy cái chén nhỏ múc chút nước, để trong lòng bàn tay trái, gắp bảy hột cơm để trong chén; tay mặt kiết ấn cam lồ, đặt trên chén cách một tấc, mặc niệmPháp luật bất tư nghì, Từ bi vô chướng ngại, Thất liệp biến thập phương, Phổ thí châu sa giới, Án độ lợi ích tóa ha. 7 lầnTay bắt ấn viết bóng hai chữ “Án lam” rồi khảy móng tay trên chén ba lần, đưa thị giả đem ra trước, để trên một cái bàn nhỏ, đọc kệ chú ại bàng kim xí điểu, Khoáng dạ quỉ thần chúng, La sát quỉ tử mẫu, Cam lồ tất sung mãn. Án, mục đế tóa ha. 7 lầnBƯNG CHÉN CƠM Hai tay, mỗi tay co hai ngón sau, còn sáu ngón bưng chén cơm ngang trán, đọc thầmChấp trì ứng khí đương nguyện chúng sinh, thành tựu pháp thí thọ thiên nhơn chỉ rị, chỉ rị phạ nhựt ra hồng phấn tra. 3 lầnTAM Ề Ăn ba miếng đầu tiênMiếng thứ nhất niệm thầm Nguyện đoạn nhứt thiết thứ hai niệm thầmNguyện tu nhứt thiết thiệnMiếng thứ ba niệm thầmThệ độ nhứt thế chúng sinhTrong khi ăn phải tưởng năm pháp quán này Nhứt kế công đa thiểu, lượng bỉ lai thổn kỷ đức hạnh toàn khuyết ứng phòng tâm ly quá, tham đẳng vi chánh sự lương dược, vị liệu hình vị thành đạo nghiệp, phương thọ thử DƯƠNG CHI Ăn cơm xong xỉa răng đọc chú nàyTước đương chí thời, đương nguyện chúng sinh thân tâm đều tịnh, phệ chư phiền a mộ dà di ma lệ, nhĩ phạ ca ra, tăng du dad nể, bát đầu na, câu ma ra, nhĩ phạ ca ra tăng thâu đà da, đà ra đà ra, tố di ma lệ, tá phạ ha 3 lầnẨM THỦY KỆ CHÚ Uống nước đọc chú nầyPhật quán nhứt bát thủy, bát vạn tứ thiên trùng, nhược bất trì thử chú, như thực chúng sinh nhục. Án phạ tất ba ra, ma ni tá ha. 3 lầnTRAI KỆ CHÚ Ăn cơm uống nước xong tụng chú nầyNam mô tát đa nẩm, tam miệu tam bồ đà, câu chi nẩm, đát điệt tha. Án chiếc lệ, chủ lệ chuẩn đề Ta-bà ha. 7 lầnSở vị bố thí giả, tất hoạch kỳ lợi ích, nhược vị lạc bố thí, hậu tất đắc an thực dĩ ngật, đương nguyện chúng sinh, sở tác giai biện cụ chư Phật NGUYỆN Thân phi nhứt lũ, thường tư chức nữ chi lao; nhựt thực tam xang, mỗi niệm nông phu chi khổ. Phổ nguyện hiện tiền tứ húng phước huệ song tu, một hậu đắc Di à thọ ký; âm siêu dương thới, pháp giới chúng sinh tề thành Phật Mô A Di à PhậtLược trích nghi thức thọ trai này để cho các Phật tử tại gia dùng, trong khi thọ Bát quan traiNGHI THỨC XẢ BÁT QUAN TRAI GIỚI Sau 24 giờ đồng hồ đúng như giờ thọ giới, người thọ giới thỉnh giới sư lên chùa ngồi một bên. Người thọ giới lạy giới sư một lạy rồi ngồi xuống chắp tay lạy rằng“ại đức một lòng nghĩ, con pháp danh là…đã nguyện thọ Bát quan trai giới, giữ trọn một ngày đêm. Bạch đại đức ! Nay con xin xả giới”.Bạch xong, lạy một lạy lui raNếu không có giới sư, tự mình làm lễ xả giới thì nên theo nghi thức sau trước Tam Bảo, thắp hương ngùi xuống khẩn nguyệnPháp vương Vô thượng quan Tam giới vô luân thất, Thiên nhơn chi ạo sư, Tứ sinh chi Từ phụ, Ư nhứt niệm quy y, Năng diệt tam kỳ nghiệp, Xưng dương nhược tán thán, Ức kiếp mạc năng tậnTư thời đệ tử tên họ gì Pháp danh pháp danh gì ư nhứt nhựt nhứt dạ, phát nguyện thọ trì Bát Quan trai giới, công huân dĩ mạn, nguyện lực châu toàn. Nguyện thập phương chư Phật, chư đại Bồ tát, chư đại thiên thần, từ bi gia hộ, đệ tử sanh sanh đắc phùng Phật pháp, đắc trị thiện duyên, cập thiết nhất chúng sanh đồng thành Phật đạo.1 xá, đứng dậyNam Mô Hộ giới tạng Bồ tát Ma-ha tátxướng ba lần, lạy ba lạyứng dậy tụng Bát nhãMa-ha Bát nhã Ba la mật đa tâm kinh. Quán tự tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã Ba la mật đa thời, chiếu kiến ngũ ẩn giai không, độ nhất thiết khổ Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, thọ, tưởng, hành, thức diện phục như Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sinh bất diệt, bất cảu bất tịnh, bất tăng bất giảm, thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành, thức; vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp; vô giãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh tận nãi chí vô lão tử diệc vô lão tử tận vô Khổ, Tập, Diệt, ạo; vô Trí diệt vô ắc, dĩ vô sỡ đắc cố. Bồ đề tát đỏa y Bát nhã Ba la mật da cố tâm vô quái ngại; vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, vin ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh Niết-bàn. Tam thế chư y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu a La tam miệu tam bồ đề. Cố tri Bát nhã Ba la mật đa thị đại thần chú, thị đại minh chú, thị vô thượng chú, thị vô đẵng đẵng chú, năng trừ thiết nhất khổ, chơn thiệt bất hư; cố thuyết Ba la mật đa thuyết chú viết“Yết yết đế, Ba la yết đế,Ba la tăng yết đế, Bồ đề tát ba ha”VÃNG SANH THẦN CHÚ Nam mô A di đa bà dạ, đa tha đà tha dạ, đa diệc dạ tha, a di rị đô bà tì, a di rị đa tất tam bà tì, a di rị đa rì ca lan đế, a di rị da tì ca lan đa, dà di nị, dà dà na, chỉ đa ca lệ Ta-bà ha 3 lầnTÁN PHẬT A Di à Phật thân kim sắcTướng hảo minh quang vô đẳng luân,Bạch hào uyển chuyển ngũ Tu Di,Cám mục trừng danh tứ đại hải,Quang trung hóa Phật vô số ức,Hóa Bồ tát chúng diệc vô biên,Tứ thập bát nguyện chúng sinh,Cửu phẩm hàm linh đăng bỉ Mô Tây Phương Cực Lạc Thế giới ại Từ ại Bi, tiếp dẫn ạo sư A Di à Mô A Di à Phật 108 lầnNam Mô Quan Thế Âm Bồ tát 10 lầnNam Mô ại Thế Chí Bồ tát 10 lầnNam Mô ịa Tạng Vương Bồ tát l0 lần Nam Mô Thanh Tịnh ại Hải Chúng Bồ tát 10 lầnQuỳ xuống chắp tay đọc bài Phổ Hiển hạnh nguyệnệ tử chúng đẳng, tùy thuận tu tập,Phổ Hiền Bồ tát, thập chủng đại nguyệnNhứt giả lễ kính chư Phật,Nhị giả xứng tán Như Lai,Tam giả quản tu cúng dường,Tứ giả sám hối nghiệp chướngNgũ giả tùy hỷ công đức,Lục giả thỉnh chuyển pháp luân,Thất giả thỉnh Phật trụ thế,Bát giả thường tùy Phật học,Cửu giả hằng thuận chúng sinh,Thập giả phổ giai hồi PHẬT DIỆT TỘI CHƠN NGÔN Ly bà ly bà đế, cầu ha cầu ha đế, đà ra ni đế, ni ha ra đế, tùy lê nể đế, Ma-ha da đế, chơn lăng càng đế Ta-bà ha. 3 lần Nguyện dĩ thử công đứcTrang nghiêm Phật Tịnh ộ,Thượng báo tứ trọng ân,Hạ tế tam đồ khổ,Nhược hữu kiến văn giả,Tất phát Bồ đề tâm,Tận thử nhất báo thân,Vãng sinh An Lạc sát.ứng dậy xướng lạy– ệ tử đại vị nhứt thiết sư trưởng ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô tận hư không, biến pháp giới, quá, hiện, vị lai, thập phương chư Phật, Tôn Pháp, Hiền Thánh Tăng, thường trú Tam Bảo. 1 lạy– ệ tử đại vị nhất thiết Phụ mẫu ân, chí tâm đảnh lễ, Nam Mô Ta-bà Giáo Chủ iều Ngự Bổn Sư Thích-Ca Mâu-Ni Phật, Long Hoa Giáo chủ ương Lai Hạ sinh Di Lạc Tôn Phật, ại trí Văn thù Sư Lợi Bồ tát, Linh sơn hội thượng Phật Bồ tát. 1 lạy– ệ tử đại vị tam đồ thọ khổ; cập pháp giới nhứt thiết chúng sinh, chí tâm đảnh lễ, Nam mô Tây phương Cực Lạc Thế Giới ại Từ ại Bi tiếp dẫn ạo Sư A Di à Phật, ại Bi Quán Thế Âm Bồ tát, ại Thế Chí Bồ tát, Liên Trì Hải Hội Phật Bồ tát. 1 lạy.xá 3 xá, lui KỶ LUẬT TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG 24 GIỜ 1. Không được ra ngoài phạm vi đại giới trong vườn chùa, hoặc vườn nhà mình 2. Không nên tiếp khách và nói chuyện lớn tiếng. 3. Bớt nói chuyện, không ăn trầu và hút thuốc. 4. Oai nghi cử chỉ phải giữ gìn cẩn thận. 5. Phải giữ đúng giờ tu tập. 6. Không nên nghĩ đến việc nhà hoặc việc thế tục. 7. Phải nhứt tâm niệm ngày thọ Bát quan trai giới, tùy theo hoàn cảnh của mỗi người, trong mỗi tháng thọ 1 ngày cho đến sáu ngày mồng 8, 14, 23, 29 và 30 tháng thiếu thì 28 và 29. Nếu người mắc làm việc thì thọ ngày chủ nhựt cũng được. Nếu Phật tử mỗi lần phát nguyện tu trong 24 giờ, giữ trai giới cho thanh tịnh thì công đức ấy về sau sẽ được quả TRÌNH TU BÁT QUAN TRAI GIỚI TRONG MỘT NGÀY MỘT ÊM 24 GIỜ BUỔI MAI 6 giờ sáng Thọ giới BUỔI MAI 7 giờ Ăn điểm tâm BUỔI MAI 8 giờ Sám hối BUỔI MAI 9 giờ Xem Kinh BUỔI MAI 10 giờ Niệm Phật BUỔI MAI 12 giờ Thọ trai BUỔI MAI 12 giờ 30 Kinh hành niệm PhậtBUỔI CHIỀU 1 giờ 30 Chỉ tịnh nghỉ BUỔI CHIỀU 3 giờ Tụng Kinh BUỔI CHIỀU 4 giờ Xem Kinh BUỔI CHIỀU 5 giờ Niệm Phật BUỔI CHIỀU 6 giờ Dùng nước sữa hoặc nước cháo BUỔI TỐI 7 giờ Tịnh độ BUỔI TỐI 8 giờ Học BUỔI TỐI 10 giờ 15 Quán sổ tức BUỔI TỐI 10 giờ 40 Nghỉ BUỔI TỐI 4 giờ khuya Tịnh Niệm Niệm Phật BUỔI TỐI 4 giờ 30 Công phu BUỔI TỐI 6 giờ Làm lễ xả giới Mục lục Trang sau Lời Dẫn Đầu Nam mô Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni!Kính thưa quý đạo hữu! Công đức tu tập bát quan trai giới một ngày một đêm, là công đức cắt trừ tham ái, là duyên để thành tựu công đức của cõi trời, của Thánh quả và ngay hiện đời giúp cho chuyển hóa nghiệp Phật dạy Phật tử tại gia, một tháng thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, để tập tu theo đời sống của người xuất gia. Trường hợp thọ giới Bát quan trai tu tập tại nhà, sẽ không viên mãn công đức, vì không cắt ái ly gia được trong một ngày một đêm, nhưng nếu tâm chúng ta hướng tới giới và tinh tấn tu tập thì vẫn thành tựu một số phần công câu lạc bộ phát động tu tập bát quan trai giới tại nhà/nhóm/đạo tràng, thì các đạo hữu đăng ký số ngày tu tập, theo thời gian tu cách nhau ít nhất là một ngày, không tu liền hai ngày, để phù hợp với duyên tại gia, không bị trễ nải việc gia đình và xáo trộn cuộc sống. Các đạo hữu đăng ký danh sách theo hướng dẫn của câu lạc các đạo hữu và gia đình tinh tấn, bình an, hạnh phúc! Quý vị và các bạn tùy duyên tải và in bản PDF tại đây ấn vào tên bài Nghi thức tu bát quan trai giới Mục lục [Hiển thị] A. Hướng Dẫn B. Các Thời Khóa I. Thời Khóa Buổi Khuya II. Thời Khóa Buổi Sáng III. Thời Khóa Buổi Trưa IV. Thời Khóa Buổi Chiều V. Cúng Thí Thực VI. Thời Khóa Buổi Tối VII. Xả Giới VIII. Các Văn Bạch Tu Bát Quan Trai Mục lục A. Hướng Dẫn B. Các Thời Khóa I. Thời Khóa Buổi Khuya II. Thời Khóa Buổi Sáng III. Thời Khóa Buổi Trưa IV. Thời Khóa Buổi Chiều V. Cúng Thí Thực VI. Thời Khóa Buổi Tối VII. Xả Giới VIII. Các Văn Bạch Tu Bát Quan Trai A. Hướng Dẫn Quý đạo hữu đọc kỹ hướng dẫn trước khi thực hành nghi thức tại link sau ấn vào tên bài Hướng dẫn thực hành nghi thức tu bát quan trai giới B. Các Thời Khóa I. Thời Khóa Buổi Khuya Ấn vào tên bài Thời khóa buổi khuya - Nghi thức tu bát quan trai II. Thời Khóa Buổi Sáng Ấn vào tên bài Thời khóa buổi sáng - Nghi thức tu bát quan trai III. Thời Khóa Buổi Trưa Ấn vào tên bài Thời khóa buổi trưa - Nghi thức tu bát quan trai IV. Thời Khóa Buổi Chiều Ấn vào tên bài Thời khóa buổi chiều - Nghi thức tu bát quan trai V. Cúng Thí Thực Tùy duyên Có/không thực hành Ấn vào tên bài Các nghi thức cúng thí thực cô hồn Lưu ý - Tùy duyên cúng trong ngày. Có thể cúng thí thực vào buổi trưa, trước bữa ăn để sau đó lấy đồ cúng thí thực ăn vào buổi trưa. Không kiêng cúng thí thực trước khi cúng Phật, vì vật thực của 2 lễ riêng Cúng thí trong ngày tu bát quan trai đúng ngày và ngày tu bát quan trai câu lạc bộ phát động thì không bạch chư Tăng chứng Cúng thí thực trong ngày tu chuyển ngày bát quan trai thì cần bạch chư Tăng chứng minh. VI. Thời Khóa Buổi Tối Ấn vào tên bài Thời khóa buổi tối - Nghi thức tu bát quan trai VII. Xả Giới Ấn vào tên bài Thời khóa xả giới - Nghi thức tu bát quan trai VIII. Các Văn Bạch Tu Bát Quan Trai Ấn vào tên bài Các văn bạch tu bát quan trai Bát quan trai giới là một phương pháp tu hành của người tại gia thọ trì 8 giới, áp dụng trong một ngày một đêm 24 giờ. Nói dễ hiểu Bát quan trai giới phát xuất từ chữ "uposatha" âm là Bồ-tát, tức là ngày đọc tụng giới bổn tỳ-khưu nửa tháng một lần; cũng là chỉ ngày mà Phật tử thọ trì tám giới. Theo nghĩa thông thường thì bát quan trai là tám cửa thanh tịnh hay là tám cửa đưa đến thanh tịnh. “Bát” là tám, "Quan" là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. "Trai" nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn. Vậy "Bát quan trai giới" là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi 1. Không sát sinh; 2. Không trộm cướp; 3. Không dâm dục; 4. Không nói dối; 5. Không uống rượu; 6. Không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem múa hát; 7. Không nằm ngồi giường cao rộng đẹp; 8. Không ăn quá giờ ngọ; Hội đồng giới sư truyền giới Theo Hoà thượng Thích Tuệ Sỹ thì “Bát quan trai, theo nghĩa đen là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới bát quan trai chính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa là, sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh. Còn cao hơn nữa, cận trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A La Hán, là bậc Thánh xuất thế gian. Ngoài nghĩa cận trụ, giới bát quan trai còn được gọi là giới bố tát hay trưởng tịnh trì giới làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong mình. Cùng một chữ nhưng hai nghĩa cận trụ, sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh. Với người xuất gia tất cả giới luật là khuôn mẫu đạo đức đều noi gương đời sống của một vị A La Hán. Mặc dù tâm tư của người ấy có thể còn nhiều hờn giận, ham muốn, nhưng bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, tác phong đạo đức thường xuyên noi theo gương mẫu của Thánh nhân, học tập theo Thánh nhân. Người tại gia không thể làm được như vậy, mà chỉ có thể tập gần, tập làm quen. Gần như vậy sẽ thấy có một niềm tin rằng thế gian này chắc chắn có bậc thánh, có vị A La Hán, là bậc Chân nhân đạo đức toàn vẹn, dứt sạch tham, sân, si; sống luôn luôn an lạc, không còn bị chìm đắm trong cõi luân hồi đau khổ. Đó là niềm tin hướng thượng, từ đó mà tìm thấy ý nghĩa và hướng đi cho đời sống của mình. Từ chỗ tin tưởng này, có thể phát triển tính lành, không cần cấm sát sanh, không cần cấm trộm cắp, mà tự nhiên mình sẽ không làm việc đó vì tin tưởng có một giá trị rất cao mà mình đang học. Đó là nghĩa tích cực của giới. Cho nên, giới không đơn giản có ý nghĩa tiêu cực là sự cấm đoán. Tuy rằng, khi học giới người học được dạy là không nên làm điều này, hãy nên làm điều kia. Người khôn ngoan, có trí trong đời, biết rõ đâu là con đường chí thiện, là đường tốt để mình đi. Đâu là con đường xấu, tự mình tránh; không cần ai cấm. Đó là học giới cho người hiểu biết; có trí tuệ. Còn đối với người không đủ năng lực để phân biệt những gì là cao thượng và thấp kém, thì những sự cấm cản là cần thiết. Như người lớn khôn ngoan khi thấy lửa, thấy thuốc độc, không bao giờ thò tay lấy và xử dụng một cách vô ý thức. Nhưng trẻ nít hay người chưa hiểu biết thì gặp gì cũng ăn, cũng uống, rất nguy hiểm. Với những người như vậy tất nhiên cần phải có sự cấm cản; quy định rõ những điều nên làm và không nên làm…” Thượng tọa giới sư truyền giới 1. Giới thứ nhất Không sát sinh. Dứt mạng sống gọi là sát, loài hữu tình là sinh. Chúng sinh có hình dáng khác nhau, nhưng cùng tham sống, sợ chết, biết đau khổ, vui mừng. Là Phật tử , nghĩa là những người theo đạo Từ bi, cần phải cố gắng không sát hại sinh vật. Sát hại người, trong Ngũ giới Phật đã tuyệt đối cấm. Do đó khuyến khích người Phật tử ăn chay, không giết hai sinh vật. Trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy giữ giới không sát sinh. Ta không giết, không trù tính mưu mô giết, cũng không nên bảo người khác giết, không vui khi thấy người giết. Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành. Trang nghiêm thanh tịnh nghe Giới sư truyền giới 2. Giới thứ hai Không trộm cướp. Những vật thuộc quyền sở hữu của người khác, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, boc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. Ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Giữ được giới này, dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành. 3. Giới thứ ba Không dâm dục. Dâm dục là cái gốc của sinh tử luân hồi, Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục, Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được ngoại tình. Ngày thọ Bát quan trai giới, phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục, cũng không được nghĩ đến những điều dâm dục. Thọ trai chánh niệm 4. Giới thứ tư Không nói dối. Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Nếu thực hành giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân thật. 5. Giới thứ năm Không uống rượu. Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy "Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu". Là Phật tử , những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. Ngày thọ "Bát quan trai giới", chúng ta không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống rượu. Giới sư giảng giải ý nghĩa bát quan trai giới 6. Giới thứ sáu Không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát … Phật cấm phật tử trang điểm, sơn phấn, dầu thơm, múa hát… là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát… Ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta không được trang điểm, múa hát hay đi xem múa hát…Đưọc như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng ta. 7. Giới thứ bảy Không được nằm ngồi giường cao đẹp. Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải thi hành giới thứ bảy này. Cúng dường 8. Giới thứ tám Không được ăn quá giờ ngọ. Trong luật Phật dạy "Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ Ngọ". Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. Tóm lại “Bát quan trai giới” là một pháp tu rất lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác. Chư tôn đức giối sư Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao thượng ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ dấu chân dẫn đến Niết bàn. Tu như vậy là tu giới, tu định và tu huệ. Ba khoản tu tạo thành một chuỗi quan hệ liên tục. Cúng dường trước khi thọ trai chánh niệm Trí Bửu - Ủy viên Ban TTTT GHPGVN Bát quan trai giới là gì? Bát quan trai giới là một phương pháp tu hành của người tại gia thọ trì 8 giới, áp dụng trong một ngày một đêm 24 giờ. Bát quan trai giới là gì? Bát Quan Trai giới là một phương pháp tu hành mà Đức Phật đã hướng dẫn cho Phật tử tại gia. Những người cư sĩ với nhiều điều phải giải quyết trong cuộc sống hàng ngày, khiến đời sống tu tập giải thoát trở nên khó khăn hơn rất nhiều. Mục đích của việc tu tập Bát Quan Trai là giúp quý Phật tử hiểu được những giá trị đạo đức và áp dụng nó vào cuộc sống đời thường, mang đến nhiều điều tốt đẹp cho bản thân và những người xung quanh. Ngoài ra, phương pháp này cũng giúp quý Phật tử có cái nhìn rõ hơn về đời sống của một tu sĩ, những phẩm chất, những lý tưởng cao quý mà phát tâm xuất gia để phụng sự nhân sinh. Bát Quan Trai tiếng Phạn Upavasatha; tiếng PaliUposatha theo nghĩa đen là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Có nghĩa là trì giới sẽ làm phát triển phần thanh tịnh, những phẩm chất tốt đẹp bên trong. Phật tử chúng ta ai cũng biết nghĩa hai chữ Hán Việt Bát là tám, Quan là cửa, còn chữ “trai” hay “chay” nguyên chữ Phạn là Posadha, có nghĩa là khi đã qua giờ Ngọ 12 giờ trưa thì không ăn nữa. Giới Bát Quan Trai chính xác được gọi là Giới Cận Trụ, nghĩa là sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền và gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh để thấy được giá trị cao quý của Phật pháp. Bát Quan Trai cũng còn gọi là Bát Trai Giới, Bát Chi Trai hay gọi tắt là Bát Giới tám giới, có nghĩa là tám cửa ngăn cản không làm tội lỗi, tập tu trọn một ngày một đêm trong chùa. ức Phật hướng dẫn Bát Quan Trai để cho hàng cư sĩ tại gia thực hành hạnh xuất gia, tập lần xuất gia thật sự. Tám giới tức là tám điều quy định của nhà Phật, cũng chính là tám giới mà Phật tử sau khi đã thọ lãnh thì giữ không cho phạm, giới là làn ranh giữa thánh thiện va tội lỗi. Thông thường thì Phật tử hiểu Giới là những điều ngăn cấm, nhưng ý nghĩa chính Giới là phẩm giá của con người. Trì giới tức là giữ gìn cái phẩm chất đạo đức của mình, giữ giá trị con người của mình. Người Phật tử thọ giới rồi vẫn có thể phạm rất nhiều, nhưng biết là phạm thì phải sửa. Không ai sinh ra mà đi được liền, nhưng bản năng té thì đứng dậy. Vì vậy, từ bước đi căn bản Ngũ giới chúng ta nâng cao lên một bậc nữa là Bát Quan Trai giới. “Bát” là tám, “Quan” là cửa, cửa ngăn chặn 8 điều tội lỗi. “Trai” nghĩa là khi đã qua giờ ngọ 12 giờ trưa không được ăn. Vậy “Bát quan trai giới” là sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi Không sát sinh; Không trộm cướp; Không dâm dục; Không nói dối; Không uống rượu; Không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem múa hát; Không nằm ngồi giường cao rộng đẹp; Không ăn quá giờ ngọ; Theo Tuệ Sỹ “Bát quan trai, theo nghĩa đen là tám điều kiêng cữ, như là tám cửa ải chận đứng các pháp bất thiện. Giới bát quan trai chính xác được gọi là giới cận trụ. Nghĩa là, sống gần đời sống xuất gia, gần chùa chiền, gần nơi thanh tịnh. Tập quen với đời sống thanh tịnh. Còn cao hơn nữa, cận trụ được hiểu là tập sống gần đời sống một vị A La Hán, là bậc Thánh xuất thế gian. Ngoài nghĩa cận trụ, giới bát quan trai còn được gọi là giới bố tát hay trưởng tịnh trì giới làm phát triển phần thanh tịnh, những đức tính tốt trong mình. Cùng một chữ nhưng hai nghĩa cận trụ, sống gần gũi đời sống cao thượng của một bậc Thánh. Với người xuất gia tất cả giới luật là khuôn mẫu đạo đức đều noi gương đời sống của một vị A La Hán. Mặc dù tâm tư của người ấy có thể còn nhiều hờn giận, ham muốn, nhưng bên ngoài, đi đứng nằm ngồi, tác phong đạo đức thường xuyên noi theo gương mẫu của Thánh nhân, học tập theo Thánh nhân. Người tại gia không thể làm được như vậy, mà chỉ có thể tập gần, tập làm quen. Gần như vậy sẽ thấy có một niềm tin rằng thế gian này chắc chắn có bậc thánh, có vị A La Hán, là bậc Chân nhân đạo đức toàn vẹn, dứt sạch tham, sân, si; sống luôn luôn an lạc, không còn bị chìm đắm trong cõi luân hồi đau khổ. Đó là niềm tin hướng thượng, từ đó mà tìm thấy ý nghĩa và hướng đi cho đời sống của mình. Từ chỗ tin tưởng này, có thể phát triển tính lành, không cần cấm sát sanh, không cần cấm trộm cắp, mà tự nhiên mình sẽ không làm việc đó vì tin tưởng có một giá trị rất cao mà mình đang học. Đó là nghĩa tích cực của giới. Cho nên, giới không đơn giản có ý nghĩa tiêu cực là sự cấm đoán. Tuy rằng, khi học giới người học được dạy là không nên làm điều này, hãy nên làm điều kia. Người khôn ngoan, có trí trong đời, biết rõ đâu là con đường chí thiện, là đường tốt để mình đi. Đâu là con đường xấu, tự mình tránh; không cần ai cấm. Đó là học giới cho người hiểu biết; có trí tuệ. Còn đối với người không đủ năng lực để phân biệt những gì là cao thượng và thấp kém, thì những sự cấm cản là cần thiết. Như người lớn khôn ngoan khi thấy lửa, thấy thuốc độc, không bao giờ thò tay lấy và sử dụng một cách vô ý thức. Nhưng trẻ nít hay người chưa hiểu biết thì gặp gì cũng ăn, cũng uống, rất nguy hiểm. Với những người như vậy tất nhiên cần phải có sự cấm cản; quy định rõ những điều nên làm và không nên làm…” 1. Giới thứ nhất Không sát sinh Dứt mạng sống gọi là sát, loài hữu tình là sinh. Chúng sanh mặc dù hình dáng có khác nhau, nhưng cùng có một điểm quan trọng giống nhau là tham sống, sợ chết, biết đau khổ vui mừng. Không cần phải dẫn chứng cho xa xôi, ngay trong sự quan sát hằng ngày, chúng ta cũng nhận thấy cá thấy người cá lội xa, chim thấy người chim bay cao, cũng như người thấy cọp người lẩn trốn, vì đều sợ lâm nguy đến tính mạng cả. Khi bị bắt, chim, cá hay người đều vùng vẫy để trốn thoát. Và khi được thả ra, thoát chết, chao ôi! Còn gì sung sướng cho bằng! Nhận thấy được sự tham sống sợ chết, nỗi vui mừng, đau sót của muôn loại như thế, mà chúng ta còn đang tâm giết hại sanh mạng, thì thật là nhẫn tâm, tàn ác vô cùng. Từ trước đến nay, loài người đã giết hại rất nhiều, bằng đủ phương tiện, nào làm lưới để bắt cá dưới nước, dùng cung tên súng đạn để bắt cầm thú trên đất… và nhất là dùng đủ mưu mô kế hoạch để giết hại chém giết lẫn nhau. Về phía thiện, thì có nhiều người cũng thiện vô cùng; nhưng về phía ác, thì cũng nhiều người ác vô cùng. Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người theo đạo Từ bi. Chúng ta cần phải cố gắng đừng sát hại sinh vật và nhất là đừng sát hại người. Về sự sát hại người, trong Ngũ Giới Phật đã tuyệt đối cấm chỉ, và chúng ta cũng đã phát nguyện giữ giới ấy. Nhưng về sinh vật, vì một số Phật tử còn ăn mặn, nên chưa tuyệt đối giữ được giới sát. Vậy ít ra trong ngày thọ Bát quan trai, chúng ta hãy tuyệt đối giữ giới ấy. Chúng ta không giết người, không trù tính mưu mô giết người, đã đành! Chúng ta cũng nên động lòng trước sanh mạng của tất cả mọi loài hữu hình. Hơn nữa, nếu thấy ai có ý giết hại sinh vật, chúng ta phải khuyên lời ngăn cản đừng cho người ta thi hành ác ý ấy. Được như thế là ta giữ được trọn vẹn giới sát, mặc dù chỉ trong một ngày đêm, nhưng lợi ích sẽ lớn lao vô cùng cho việc tu hành của chúng ta. 2. Giới thứ hai Không trộm cướp Hai chữ trộm cướp ở đây có một ý nghĩa vô cùng. Những vật thuộc quyền sở hữu của người ta, từ vàng, bạc, châu báu, đất ruộng nhà cửa, cho đến đồ đạc, cây kim sợi chỉ, cọng rau, người ta không cho mà mình lấy, là trộm cướp. Lường thăng tráo đấu, đo thiếu lấy thừa, đi làm trễ giờ, bóc lột công nhân, lấy của công, ăn hối lộ, được của người không trả lại, đều là trộm cướp. Người đời coi tiền của hơn tánh mạng, trèo non, lặn suối, lo mưu này tính kế nọ để làm ra tiền nuôi thân và gia đình, và để dành dụm phòng khi đau ốm, tai nạn. Nếu rủi bị mất tiền của do mồ hôi nước mắt mà có, người ta vô cùng đau khổ, tuyệt vọng có khi đến quyên sinh. Chúng ta cũng đã có nhiều khi đau buồn vì mất của, thì xét người khác cũng vậy. Chúng ta không muốn ai trộm cướp của mình, thì tất nhiên mình cũng không nên trộm cướp của ai. Đó là lẽ công bằng rất giản dị. Huống chi chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người quyết tâm diệt trừ tham dục, để được giải thoát, thì lẽ nào ta lại lấy của phi nghĩa? Trong cuộc đời tranh đấu hằng ngày để sống, có nhiều khi chúng ta không giữ được một cách tuyệt đối giới cấm này, chẳng hạn, chúng ta làm ít mà cố đòi lương cho cao, bán hàng xấu với giá cao, mưu tính chước này kế nọ để được lợi nhiều một cách thiếu chính đáng… Có khi chúng ta nhận thấy như thế là bất chính, nhưng tự bào chữa rằng vì sự sống của gia đình, thân thuộc mà phải làm như thế. Nhưng trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy quyết không trộm cướp đã đành, mà cũng không được để cho một ý nghĩ tham lợi móng lên trong tâm. Chúng ta không trộm cướp, không nghĩ đến sự trộm cướp, mà thấy ai trộm cướp hay nẩy ra ý trộm cướp thì chúng ta cũng khuyên can họ, ngăn ngừa không cho họ làm bậy. Không những không trộm cướp và ngăn ngừa sự trộm cướp mà thôi, chúng ta còn bố thí cho những người nghèo khổ, thiếu ăn thiếu mặc, tìm cách giúp đỡ những người thân thuộc, trong cảnh túng thiếu. Giữ được giới này một cách tuyệt đối, thì dù thời gian ngắn ngủi trong 24 giờ đồng hồ, chúng ta cũng đã gieo được những nhân lành tốt đẹp cho sự tu hành của chúng ta. 3. Giới thứ ba Không dâm dục Dâm dục là cái nghiệp nhơn sanh tử luân hồi, nên người xuất gia phải đoạn hẳn. Phật dạy rằng “Người muốn đoạn trừ sanh tử, chứng quả Niết bàn mà không trừ hẳn dâm dục, thì không khác kẻ nấu cát sạn mà muốn cho thành cơm, dù ra công đem nấu, trải qua năm ngàn kiếp cũng không thành cơm được”. Vậy những Phật tử xuất gia, muốn thành Phật quả thì phải trừ dâm dục. Còn những Phật tử tại gia, chưa có thể hoàn toàn đoạn trừ dâm dục được, thì Phật chỉ cấm tà dâm, nghĩa là ngoài vợ chồng, không được lan chạ; và giữa vợ chồng, cũng cần phải giữ chánh lễ, biết tiết dục để cho thân tâm được trong sạch nhẹ nhàng. Nhưng đây là nói về ngày thường của Phật tử tại gia. Chứ đến ngày thọ Bát quan trai giới, thì tuyệt đối phải giữ giới tịnh hạnh, không được hành động dâm dục đã đành, mà cũng không được nhớ nghĩ đến những điều dâm dục. Nếu triệt để giữ đúng giới này, thì dù chỉ trong 24 giờ đồng hồ, lợi ích cũng rộng lớn vô cùng, vì chúng ta đã có dịp để gieo nhơn tịnh hạnh là một nhơn rất quý báu trong sự tu hành diệt dục. 4. Giới thứ tư Không nói dối Nói dối là tâm nghĩ miệng nói trái nhau. Nói dối có 4 cách, đó là nói không thật, nói thêu dệt, nói lưỡi hai chiều, nói lời hung ác. Chúng ta đã thấy, hằng ngày trong đời, tai hại của sự nói dối. Tai hại lớn nhất là làm mất lòng tin cậy nhau. Trong một gia đình mà không tin nhau, thì gia đình sẽ tan nát; trong một xã hội mà không tin nhau, thì xã hội sẽ điêu tàn. Trong đời sống hằng ngày chúng ta chưa có thể hoàn toàn giữ giới này được, thì trong ngày thọ Bát quan trai giới, chúng ta hãy triệt để thực hành giới cấm này. Chúng ta không nói sai, không nói thêu dệt, không nói hai chiều, không nói lời hung ác đã đành; chúng ta lại còn khuyên răn những người chung quanh giữ đúng giới không nói láo ấy! Nếu thực hành triệt để giới cấm này, thì dù chỉ trong một ngày đêm, chúng ta cũng đã gieo được một hột nhơn quý báu rất hiếm có trong đời này là lòng chân thật. 5. Giới thứ năm Không uống rượu Rượu làm say mê, tối tăm trí não người uống. Nó còn nguy hiểm hơn cả thuốc độc, vì thuốc độc uống vào chết ngay, song chỉ giết chết một đời người thôi; chớ rượu làm cho người cuồng tâm, mất trí, gây nên nhiều tội lỗi, chết đi sanh lại, luân hồi nhiều kiếp trong tối tăm si ám. Bởi thế, trong Kinh, Phật dạy “Thà uống nước đồng sôi cho tan mất thân này, chứ không nên uống rượu”. Chúng ta là Phật tử, nghĩa là những người đang trau dồi Trí tuệ để được sáng suốt như Phật, chúng ta không được uống rượu. Chúng ta không uống rượu đã đành, mà cũng không khuyên mời người uống rượu. Tự mình uống rượu tội còn nhẹ, chớ khuyên mời người khác uống, tội lại nặng hơn. Song, trong lúc đau ốm, nếu lương y bảo phải có rượu hòa với thuốc uống mới lành bệnh, thì chúng ta cũng được tạm dùng, Khi đó rượu trở thành một vị thuốc, chứ không phải là một vị làm cho trí não ta cuồng loạn nữa. Đấy là nói về ngày thường, chứ trong ngày thọ “Bát quan trai giới”, chúng ta phải trừ tuyệt rượu, không được uống đã đành, mà còn khuyên răn người khác đừng uống nữa. 6. Giới thứ sáu Không trang điểm, thoa dầu thơm, múa hát … Phật cấm Phật tử trang điểm, sơn phấn, dầu thơm, múa hát… là vì muốn cho chúng ta khỏi đọa vào địa ngục. Nhưng trong đời sống hằng ngày của người Phật tử tại gia, vì còn tiếp xúc với đời sống xã hội, nên phải ăn mặc tề chỉnh trang nghiêm, đôi khi cũng phải đi dự những buổi hòa nhạc, hay múa hát… Ngày thọ giới Bát quan trai, chúng ta không được trang điểm, múa hát hay đi xem múa hát…Được như thế, thì tuy thời gian chỉ ngắn ngủi có 24 giờ, ảnh hưởng tốt đẹp của nó vô cùng quý báu cho sự tu hành của chúng ta. 7. Giới thứ bảy Không được nằm ngồi giường cao đẹp Điều răn cấm này cũng như điều răn cấm thứ sáu, có mục đích ngăn ngừa thân xác ta, không cho buông lung theo những cảm giác mơn trớn khoái lạc của giường cao nệm tốt, chăn ấm màn êm. Vì những cảm giác này có thể kích thích lòng ham muốn bất chính của xác thân, tạo điều kiện cho chúng ta gây tội lỗi, nên Phật chế ra giới cấm này. Xưa Ngài Ngộ Đạt Quốc sư là một bực cao đức, được vua Ý Tôn và vua Hy Tôn hết sức ưu đãi. Vua Ý Tôn cúng cho Ngài một bảo tọa bằng trầm hương rất quý báu. Từ khi được bảo tọa ấy, Ngộ Đạt Quốc Sư mống niêm danh lợi, thành ra thất đức, phải chịu nhiều tai vạ và đau khổ. Vì hiểu rõ cái tai hại của giường cao chiếu rộng, chăn ấm nệm êm, nên xưa Ngài Hiếp Tôn Giả từ khi xuất gia, lưng không nằm chiếu; Ngài Cao Phong Diệu thiền sư lập nguyện ba năm không nằm giường chõng; đức Phật Thích Ca, trong khi xuất gia tìm đạo, đã gối cỏ nằm sương, từ năm này sang năm khác… Noi gương người xưa, các vị xuất gia chỉ nằm trên một cái giường nhỏ hẹp, vừa ngủ, chứ không bao giờ dùng giường rộng nệm cao. Kẻ tại gia cũng nên tập dần đức tánh giản dị đạm bạc ấy. Nếu chưa làm được trong ngày thường, thì ngày thọ giới Bát quan trai, cũng phải triệt để thi hành giới thứ bảy này. 8. Giới thứ tám Không được ăn quá giờ ngọ Trong luật Phật dạy “Chư thiên ăn sớm mai, Phật ăn giờ ngọ, súc sanh ăn sau giờ ngọ, ngạ quỷ ăn tối, chư Tăng học theo Phật, phải ăn đúng giờ Ngọ”. Vì những lợi ích thiết thực nói trên, nên người xuất gia cần phải thực hành. Còn phật tử tại gia, khi tu Bát quan trai giới cũng phải giữ đúng giới này. Tóm lại “Bát quan trai giới” là một pháp tu rất lợi ích cho Phật tử tại gia. Trong thời gian tu hành thân, khẩu, ý của người thọ giới được hoàn toàn thạnh tịnh, tuy chỉ có 24 giờ đồng hồ, nhưng 24 giờ ấy còn quý báu hơn cả một đời của người không tu hành. Tuy lượng rất ít, mà phẩm lại nhiều. Nó chỉ là giọt nước, nhưng là một giọt nước trong sạch hoàn toàn, cho nên nó còn quý hơn cả một ao nước đục bùn nhơ, nó chỉ là một viên ngọc nhỏ xíu, nhưng đó là viên ngọc Ma ni, nên còn quý hơn trăm ngàn châu báu khác. Giới bát quan trai được Phật thuyết cho các Thánh đệ tử; những người tuy sống đời tại gia, hưởng thụ ngũ dục của thế gian, nhưng tâm tư đã vững chắc trên Thánh đạo. Trong ý nghĩa này, tu có nghĩa là phát triển, làm cho bản thân càng lúc càng cao thượng ngang tầm Thánh đạo, để càng lúc càng nhìn thấy rõ dấu chân dẫn đến Niết bàn. Tu như vậy là tu giới, tu định và tu huệ. Ba khoản tu tạo thành một chuỗi quan hệ liên tục. Tâm Hướng Phật/TH!

bát quan trai giới